Tiếp tục phiên họp thứ 46, ngày 4/6, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi).
Phiên Thảo luận của Quốc hội về Dự thảo luật thuế TTĐB (sửa đổi) ngày 9/5/2025, Dự thảo mới nhất đã sửa đổi đề xuất bổ sung mặt hàng nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100 ml vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) với mức thuế 8% vào năm 2027 và 10% từ năm 2028.
Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ý kiến của các biểu Quốc hội băn khoăn khi chưa có đủ cơ sở khoa học, thực tiễn, đánh giá toàn diện và tham khảo kinh nghiệm quốc tế cũng như đảm bảo tính công bằng khi áp thuế đối với nước giải khát có đường và kiến nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng và có lộ trình áp thuế phù hợp đối với mặt hàng mới như nước giải khát có đường.
Dự thảo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi (Dự luật thuế TTĐB) là một trong 34 dự án luật sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV. Một trong những nội dung chính sách được bổ sung mới tại Dự thảo là “Mở rộng cơ sở tính thuế”, trong đó có quy định: “Bổ sung nước giải khát có đường theo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB với thuế suất 10%” do đây là mặt hàng mới, với mục đích bảo vệ sức khỏe nhân dân, khuyến cáo của WHO, Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc UNICEF và Bộ Y tế về thực tế bệnh tật liên quan đến nước giải khát có đường tại Việt Nam, kịp thời ngăn ngừa và giảm thiểu tình trạng thừa cân, béo phì đáng báo động ở trẻ em và thanh thiếu niên, nhằm dự phòng giảm thiểu rủi ro bệnh tật và gánh nặng y tế đối với bệnh không lây nhiễm.
Quy định đưa ra nhằm hạn chế tiêu dùng do lo ngại sử dụng sản phẩm sẽ có hại cho sức khỏe người sử dụng. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, cần đánh giá đầy đủ cơ sở khoa học đối với loại sản phẩm này.
Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội Nguyễn Đắc Vinh băn khoăn với nội dung đánh thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường. Đưa ví dụ về nước uống coca, theo ông Vinh, có 2 loại là có đường và một loại khác là coca không đường (Light, sử dụng chất tạo ngọt nhưng không phát sinh năng lượng) – “Giả sử đánh thuế coca có đường, còn coca Light thì không, hoặc đánh thuế cả 2 thì cần có cơ sở khoa học để giải thích”.

Cùng với đó, Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu Nguyễn Thanh Hải cho rằng, đánh thuế nước giải khát có đường là vấn đề được bàn luận rất nhiều tại các phiên họp. Việc đánh thuế có thể khiến giá sản phẩm tăng lên, làm thay đổi định hướng tiêu dùng của người dân. “Ví dụ coca đắt vì bị đánh thuế thì người dân có thể chuyển hướng sang sử dụng các sản phẩm khác, như nước mía, chè đỗ đen, nước ép hoa quả tự nhiên chẳng hạn. Vậy như thế có đảm bảo rằng tỉ lệ béo phì sẽ giảm hay không”.

Ông Hoàng Thanh Tùng, Chủ nhiệm Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật và Tư pháp của Quốc hội cho rằng: “Nếu chúng ta có đầy đủ cơ sở khoa học để cho rằng việc sử dụng đồ uống có đường gây tổn hại đến sức khỏe thì tôi ủng hộ việc đánh thuế. Nhưng vấn đề là ý kiến còn rất khác nhau do đây là vấn đề thuộc về khoa học chứ không phải vấn đề về quy định. Trường hợp đánh thuế làm rất rõ và giải trình rất rõ với Quốc hội cơ sở khoa học việc xác định đồ uống có đường có hại, cần có kiểm soát chặt chẽ, hạn chế tiêu dùng cho nên phải đánh thuế tiêu thụ đặc biệt, chỗ này phải lý giải”.
Trước đó, tại nhiều hội thảo, tọa đàm xoay quanh chủ đề này như Hội thảo “Tham vấn hoàn thiện dự thảo Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt” vào ngày 18/3/2025 tại Hà Nội do Liên đoàn thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) hay như Hội thảo với chủ đề “Hỗ trợ tăng trưởng kinh tế – Góc nhìn từ doanh nghiệp chịu thuế tiêu thụ đặc biệt” do báo Nhân Dân tổ chức ngày 22/4/2025 tại Hà Nội với sự tham gia đông đảo của các nhà hoạch định chính sách, các hiệp hội, các đối tượng chịu tác động trực tiếp, cộng đồng doanh nghiệp và các chuyên gia. Chia sẻ từ các chuyên gia và cộng đồng doanh nghiệp cho thấy, việc áp thuế TTĐB đối với nước giải khát có đường sẽ gây ra tác động tiêu cực tới các doanh nghiệp trong ngành và lan tỏa tới hơn 20 ngành hàng khác trong chuỗi cung ứng; ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế (giảm GDP và GRDP), thu ngân sách (thuế gián thu và trực thu), giảm thu nhập người lao động v.v., và người tiêu dùng có xu hướng chuyển đổi sang đồ uống có đường, chế biến tại chỗ, rủi ro cho sức khỏe, không đảm bảo tính bao quát, công bằng và phù hợp.
Kiến nghị lộ trình áp thuế phù hợp
Gần đây, tại Kỳ họp thứ 9, phiên Thảo luận của Quốc hội về Dự thảo luật thuế TTĐB (sửa đổi) ngày 9/5/2025, Dự thảo mới nhất đã sửa đổi đề xuất bổ sung mặt hàng nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100 ml vào đối tượng chịu thuế TTĐB với mức thuế 8% vào năm 2027 và 10% từ năm 2028. Nhiều ý kiến của các biểu Quốc hội băn khoăn khi chưa có đủ cơ sở khoa học, thực tiễn, đánh giá toàn diện và tham khảo kinh nghiệm quốc tế cũng như đảm bảo tính công bằng khi áp thuế đối với nước giải khát có đường và kiến nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng và có lộ trình áp thuế phù hợp đối với mặt hàng mới như nước giải khát có đường.
Theo Đại biểu Cầm Thị Mẫn – Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hoá, mặc dù đại biểu tán thành với việc quy định lộ trình áp thuế đối với mặt hàng mới nhưng cần có đánh giá tác động đầy đủ khi mà mặt hàng nước giải khát có đường là mặt hàng có mối liên hệ đến hơn 20 ngành liên quan trong chuỗi giá trị, như ngành hàng bán lẻ, du lịch, nhà hàng, khách sạn và hàng trăm ngàn hộ nông dân trồng mía, công ty sản xuất đường. Đại biểu cho rằng, với việc áp thuế đối với mặt hàng mới cần phải có lộ trình chuẩn bị dài hơi, nhất là trong bối cảnh doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và gánh nặng về thuế, phí.
Đại biểu đề nghị nghiên cứu bổ sung lộ trình áp dụng thuế suất đối với nước giải khát, cụ thể: Phương án 1, lộ trình áp thuế sau khi luật có hiệu lực 1 năm, từ ngày 1/1/2027 đến 31/12/2027 mức thuế suất 5%, từ ngày 1/1/2028 đến 31/12/2028 mức thuế suất 8%, từ ngày 1/1/2029 mức thuế suất 10%. Phương án 2, lộ trình áp thuế sau khi luật có hiệu lực 2 năm, từ ngày 1/1/2028 đến 31/12/2028 mức thuế suất 8%, từ ngày 1/1/2029 mức thuế suất 10%.
Đại biểu Nguyễn Thị Thu Dung – Đoàn ĐBQH tỉnh Thái Bình rất băn khoăn trong bối cảnh nền kinh tế đang chịu nhiều áp lực từ bên ngoài và còn nhiều bất ổn ở khu vực tiêu dùng và dịch vụ thì việc áp dụng thuế TTĐB với nước giải khát có đường cần phải được cân nhắc thấu đáo và dựa trên các đánh giá toàn diện. Đại biểu cũng rất trăn trở về việc chưa có cơ sở khoa học vững chắc để khẳng định rằng nước giải khát có đường là nguyên nhân chính và duy nhất gây ra tình trạng thừa cân, béo phì. Ngoài ra, việc chỉ áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt lên nhóm nước giải khát đóng gói sẵn có hàm lượng đường trên 5g/100ml có thể gây hiểu nhầm và dẫn đến hành vi tiêu dùng thay thế không mong muốn.

Vì vậy, đại biểu kiến nghị lùi thời điểm áp dụng quy định đánh thuế TTĐB với nước giải khát có hàm lượng đường 5g/100ml bắt đầu từ năm 2028 nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nghiên cứu, điều chỉnh sản phẩm, đầu tư, đổi mới công nghệ và phát triển sản phẩm thay thế với lộ trình có thể từ 3% – 7% rồi đến 10% để giúp doanh nghiệp có thời gian thích nghi, đồng thời có thể xem xét áp dụng mức thuế khác nhau tùy hàm lượng đường trong sản phẩm nhằm khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công thức theo hướng giảm đường, hướng đến tiêu dùng lành mạnh.
Đại biểu Phạm Văn Hòa – ĐBQH tỉnh Đồng Tháp cũng quan ngại việc chưa có đủ cơ sở khoa học để chứng minh nước giải khát có đường gây béo phì vì bệnh này có nhiều nguyên nhân khác nhau cũng như việc đường có ở nhiều các sản phẩm khác (ví dụ như trà sữa, các đồ uống có đường pha sẵn khác được bán tràn lan trên đường phố v.v) chứ không riêng gì nước giải khát có đường. Đại biểu đề nghị xem xét sao cho phù hợp, đảm bảo tính công bằng với các sản phẩm có đường khác và đồng thời cân nhắc nên áp dụng 5% bắt đầu từ năm 2028 trở đi.
Đại biểu Mai Văn Hải – Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa, lo ngại việc áp thuế nước giải khát có đường sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ngành sản xuất nước giải khát trong nước, nhất là các doanh nghiệp sản xuất nhỏ và vừa chịu gánh nặng, tăng thêm chi phí, khả năng cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu sẽ khó khăn, giá thành sản phẩm tăng khiến cho tiêu dùng sẽ giảm, ảnh hưởng đến doanh thu và việc làm của người lao động. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra cần có cân nhắc đánh giá kỹ lưỡng hơn nữa những tác động ảnh hưởng từ việc áp thuế để có những biện pháp thực hiện hoặc lộ trình thực hiện phù hợp. Tại thời điểm hiện nay, tôi đề nghị nên chưa xem xét đánh thuế đối với nước giải khát.

Chưa đủ cơ sở khoa học chứng minh nước giải khát có đường gây béo phì
Theo thống kê của Bộ Y tế, riêng năm 2020, tỷ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.; Theo kết quả Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc 2019 – 2020 của Viện dinh dưỡng quốc gia, tỷ lệ trẻ em thừa cân, béo phì tăng gấp 2,2 lần, từ 8,5% năm 2010 lên thành 19,0% năm 2020 . Mặc dù Việt Nam có tốc độ tăng nhanh về số người béo phì trong thời gian gần đây nhưng xét về tỷ lệ dân số thì số người TCBP ở Việt Nam vẫn thấp nhất so với khu vực Đông Nam Á và trên thế giới.
Theo số liệu từ Liên đoàn béo phì thế giới năm 2022, tỉ lệ thừa cân béo phì người trưởng thành tại Việt Nam đứng thứ 200 và Trẻ em đứng thứ 137. Tại khu vực Đông Nam Á, tỉ lệ thừa cân béo phì ở người trưởng thành tại Việt Nam, đứng thứ 11 Trẻ em đứng thứ 8. Số liệu này cho thấy, tỉ lệ thừa cân béo phì tại Việt Nam còn thấp, tỉ lệ suy dinh dưỡng, thấp còi, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, miền núi còn cao.
Theo các tài liệu của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế tại Quyết định số 2892/QĐ-BYT ngày 22/10/2022 đã chỉ ra rằng thừa cân béo phì (TCBP) do nhiều nguyên nhân khác nhau, bao gồm (i) chế độ dinh dưỡng không hợp lý, không chỉ đên từ việc tiêu thụ các thực phẩm giàu năng lượng bao gồm các thực phẩm giàu chất béo, chất đạm, đường, muối và không đủ chất xơ; (ii) thiếu hoạt động thể chất, lười vận động; iii) các nguyên nhân di truyền, nội tiết. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra mối tương quan giữa TCBP với thời gian tĩnh tại, tuổi tác, trình độ học vấn, môi trường sinh sống làm việc, thời gian ngủ v.v..
Các khảo sát thực tiễn đối với lứa tuổi học đường tại Việt Nam cho thấy không có mối tương quan giữa việc tăng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt với tăng tỷ lệ TCBP. Cụ thể, Báo cáo của Viện Dinh dưỡng Quốc gia về tình trạng dinh dưỡng, khẩu phần ăn, tần suất và thói quen sử dụng thực phẩm của học sinh tiến hành năm 2018 cho thấy tỷ lệ TCBP ở học sinh khu vực thành thị cao hơn nhiều so với học sinh ở khu vực nông thôn (lần lượt là 41,9% và 17,8%) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).
Trong khi đó, ít vận động thể lực và thời gian tĩnh tại nhiều lại có đóng góp đáng kể vào tình trạng gia tăng TCBP ở lứa tuổi học đường. Cũng theo Báo cáo của Viện Dinh dưỡng nêu trên, trẻ em khu vực thành thị có tỷ lệ TCBP cao hơn trẻ em khu vực nông thôn thì cũng là nhóm có hoạt động thể lực (HĐTL) ít hơn trẻ em khu vực nông thôn.
Theo các chuyên gia y tế, có nhiều nguyên nhân dẫn đến thừa cân béo phì mà đồ uống có đường không phải là nguyên nhân chính. Các thực phẩm có chứa đường và đồ ngọt nói chung cũng chỉ cung cấp khoảng 3,6% tổng năng lượng đưa vào cơ thể từ thức ăn và đồ uống, trong khi đó nguồn năng lượng chiếm nhiều nhất là ngũ cốc (51,4%), thịt (15,5%), các thực phẩm khác là (22%).
Nước giải khát có đường không phải là nguồn cung cấp đường và calorie duy nhất và cao nhất trong chế độ ăn uống của người Việt nên nếu ngoài các sản phẩm này thì người tiêu dùng vẫn có thể tiêu thụ đường và calorie với hàm lượng cao hơn từ các sản phẩm khác. Nếu so sánh về mức calories cung cấp giữa các loại thực phẩm thì lượng calo cung cấp từ nước giải khát có đường chỉ khoảng 44 kcal/100g) là thấp nhất trong các loại thực phẩm chứa đường.
Theo kết quả khảo sát từ Viện Dinh dưỡng Quốc gia nêu trên, tỷ lệ học sinh tiêu thụ các sản phẩm có đường khác như bánh kẹo, kem, chè chiếm 51,1% ở khu vực thành thị và 56,4% ở khu vực nông thôn, cao hơn rất nhiều so với nước ngọt (21,6% ở khu vực nông thôn và 16,1% ở khu vực thành thị) nhưng tỷ lệ tiêu thụ nước ngọt ở mức độ thường xuyên của trẻ em khu vực thành thị lại thấp hơn của trẻ em ở khu vực nông thôn (lần lượt là 16,1% và 21,6%).
Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Tài chính, mức tiêu thụ đồ uống có đường ở Việt Nam năm 2018 là 50,7 lít/người/năm. Theo số liệu trong báo cáo của Bộ Y tế, năm 2020 Việt Nam tiêu thụ 3,3 tỷ lít nước giải khát, tức là tương đương với khoảng 34 lít/người/năm nếu tính trên số dân là 96 triệu người vào năm 2020. Như vậy, theo số liệu của hai cơ quan trên thì mức độ tiêu thụ đồ uống có đường tại Việt Nam từ năm 2018 đến năm 2020 có chiều hướng giảm. So với nhiều quốc gia và khu vực, mức độ tiêu thụ này là khá thấp.


Theo các chuyên gia, cần đánh giá giá toàn diện và cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình khi áp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với mặt hàng mới – nước giải khát có đường, chỉ bổ sung khi đã có đủ các bằng chứng, cơ sở khoa học, nghiên cứu, thực tiễn và đánh giá đầy đủ. Là mặt hàng mới bổ sung vào đối tượng chịu thuế TTĐB, theo nghiên cứu đánh giá tác động, thông lệ quốc tế, kiến nghị cân nhắc lộ trình và thuế suất hợp lý hơn giúp doanh nghiệp và thị trường thích nghi, điều chỉnh. Cụ thể, kiến nghị cân nhắc kỹ lưỡng lộ trình: Từ 2028: áp thuế suất 5%; Từ 2029: 8% và từ 2030: 10%.